Sáng 2/2: Cả nước chỉ còn 2 ca COVID-19 nặng, 3 nhóm nguyên nhân dẫn đến khuyết tật ở trẻ
Theo thống kê của Bộ Y tế hiện cả nước chỉ
còn 2 ca COVID-19 nặng đang thở oxy; Đã tròn 32 ngày Việt Nam chưa ghi nhận ca
mắc COVID-19 tử vong. Theo Bộ Y tế, một trong những nguyên nhân gây khuyết tật ở
trẻ là sinh con khi mẹ trên 35 và bố trên 45 tuổi...
Cả nước còn 2 bệnh nhân COVID-19 đang thở oxy
Bộ Y tế cho biết ngày 1/2 chỉ có 11 ca mắc COVID-19, giảm
mạnh so với ngày trước đó. Trong ngày có 17 bệnh nhân khỏi.
Kể từ đầu dịch đến nay Việt Nam có 11.526.508 ca mắc
COVID-19 đứng thứ 13/230 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với tỷ lệ số ca
nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 117/230 quốc gia và vùng lãnh thổ (bình
quân cứ 1 triệu người có 116.484 ca nhiễm).
Đến nay tổng số người mắc COVID-19 đã khỏi ở nước ta là
10.612.479 ca, trong số các trường hợp đang theo dõi, giám sát, hiện còn
2 bệnh nhân đang thở oxy.
Đến ngày 1/2 là tròn 32 ngày Việt Nam không ghi nhận ca tử vong do COVID-19. Tổng số ca tử vong do COVID-19 tại Việt Nam tính đến nay là 43.186 ca, chiếm tỷ lệ 0,4% so với tổng số ca nhiễm.
Ca mắc COVID-19 ở nước ta thời gian qua liên tục giảm.
Tổng
số ca tử vong xếp thứ 26/230 vùng lãnh thổ, số ca tử vong trên 1 triệu dân xếp
thứ 139/230 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. So với châu Á, tổng số ca tử
vong xếp thứ 7/49(xếp thứ 3 ASEAN), tử vong trên 1 triệu dân xếp thứ 21/49 quốc
gia, vùng lãnh thổ châu Á (xếp thứ 3 ASEAN).
Phát hiện, can thiệp sớm khuyết tật ở trẻ từ
0-6 tuổi
Theo tài liệu hướng dẫn "Phát hiện sớm - can thiệp
sớm khuyết tật trẻ em" do Bộ Y tế vừa ban hành, Bộ Y tế dẫn chứng báo cáo
của Tổng cục Thống kê về điều tra quốc gia Người khuyết tật Việt Nam ước tính
Việt Nam có khoảng 1,2 trẻ em khuyết tật độ tuổi 0-17 (chiếm 3,1% trẻ trong độ
tuổi này), trong đó trẻ < 6 tuổi có tỉ lệ khuyết tật (chiếm 1,39% trẻ cùng độ
tuổi).
Loại khuyết tật phổ biến nhất ở trẻ em trong điều tra tại
cộng đồng là khuyết tật về vận động chiếm 22,4% và khuyết tật về nói chiếm
21,4% tổng số trẻ khuyết tật.
Nguyên nhân chính của tình trạng khuyết tật ở trẻ em là
do khuyết tật bẩm sinh (chiếm 55%-64,6%) và do bệnh tật (chiếm 23,5%-29,1%).
Cũng trong tài liệu này, Bộ Y tế nêu rõ nguyên nhân dẫn
đến khuyết tật ở trẻ em được phân loại thành 3 nhóm chính.
·
Nguyên
nhân khuyết tật trước sinh: bao gồm bệnh của mẹ khi mang thai (vi rút, bệnh
giáp trạng, ngộ độc thai, tiểu đường, chấn thương...).
Đặc biệt, mẹ trên 35 tuổi và bố trên 45 tuổi khi sinh con
cũng là nguyên nhân gây khuyết tật ở trẻ được Bộ Y tế nêu ra.
Ngoài ra, mẹ phơi nhiễm môi trường độc hại khi mang thai
như các kim loại nặng, chất độc dùng trong nông nghiệp, thực phẩm, các loại
thuốc, các chất kích thích như rượu, ma túy, dinh dưỡng bà mẹ, nhiễm trùng. Bất
thường nhiễm sắc thể, gene, chất liệu di truyền thai nhi cũng là nguyên nhân
gây khuyết tật trước sinh ở trẻ.
·
Nguyên
nhân khuyết tật trong sinh: bao gồm việc can thiệp sản khoa (dùng kẹp/hút
lấy thai, mổ đẻ, kích thích đẻ...).
Trẻ đẻ non (dưới 37 tuần), thiếu oxy não (ngạt), cân nặng
khi sinh thấp (<2.500g), trẻ bị vàng da nhân não do bất đồng nhóm máu… là
các yếu tố nguy cơ khiến trẻ bị khuyết tật.
·
Nguyên
nhân khuyết tật sau sinh: bao gồm trẻ bị chấn thương sọ não, chảy máu não,
nhiễm trùng thần kinh, suy hô hấp, phơi nhiễm các yếu tố môi trường độc hại
(hóa chất, thuốc trừ sâu, kim loại nặng); sốt cao co giật.
·
Đối tượng của phát hiện sớm khuyết tật là tất
cả trẻ em từ 0 - 6 tuổi tại cộng đồng (bình thường và khuyết tật đã được chẩn
đoán trước đó). Việc phát hiện sớm và can thiệp sớm có tác động tích cực tới
trẻ, cha mẹ, gia đình và xã hội tạo cơ hội cho trẻ khuyết tật hội nhập xã hội.
·
Cụ thể, nếu được phát hiện sớm và can thiệp
sớm, nhiều trẻ khuyết tật sẽ phục hồi tốt và trở thành trẻ bình thường (ví dụ
trẻ bị bàn chân khoèo bẩm sinh hoặc trật khớp háng bẩm sinh, trẻ tự kỷ nhẹ có
chỉ số IQ bình thường).
·
Một số trẻ khuyết tật khác có thể phát triển
được các kỹ năng gần như trẻ bình thường (ví dụ: trẻ chậm phát triển vận động
và/hoặc ngôn ngữ so với tuổi, trẻ bại não liệt nửa người hoặc hai chân mức độ
nhẹ).
· Một số trẻ khuyết tật nặng cũng được phục hồi không dẫn đến các khuyết tật thứ phát, các kỹ năng được cải thiện nhiều và có thể hội nhập xã hội (ví dụ trẻ bại não thể co cứng nặng sẽ không bị co rút biến dạng khớp, tuy không đi lại được nhưng ngồi xe lăn vẫn có thể đi học).
Theo SKĐS